Cassandra Willyard | Đoàn Phương Thảo dịch
Bài đăng trên Dạy&Học số 39 | Tháng 09/2021
Trong tháng Ba, quyết định mở lại Schenk và các trường đã đóng cửa trên khắp nước Mỹ đã làm dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã thông báo rằng các trường có thể mở lại một cách an toàn mà không làm gia tăng sự lây lan trong cộng đồng và đặt giáo viên cũng như học sinh và tình thế nguy hiểm, miễn là các bước được thực hiện để giảm thiểu sự lây truyền của vi rút. Nhưng những điều đó chẳng làm dịu được sự lo lắng của các bậc phụ huynh, nhân viên nhà trường và ngay cả các nhà khoa học. Đôi khi nó bị thổi bùng thành những tranh luận công khai.
Monica Gandhi, một nhà nghiên cứu bệnh truyền nhiễm ở Đại học California, San Francisco, thường viết tweet về COVID-19 và trường học, nhưng cô đã tạm ngưng lại vào tháng Ba. Cuộc đàm luận đã trở nên quá cảm tính, đặc biệt là khi mọi người đưa ra những lời buộc tội khủng khiếp nhắm vào cô. Cô nói: “Có một điều luôn luôn chấm dứt cuộc tranh luận, đó là tuyên bố rằng cô muốn bọn trẻ chết.”
Giờ đây, khi năm học đã kết thúc ở nhiều quốc gia, những nhà quản lý trường học đang xem xét kinh nghiệm của họ và tìm kiếm các cán bộ y tế công cộng để giúp họ lập kế hoạch cho năm học mới. Ở Anh, trẻ em đã đi học lại vào tháng Ba và tháng Tư. Ở Pháp, đợt COVID-19 thứ ba đã khiến trường học phải tạm đóng cửa thời gian đó, nhưng học sinh đã được trở lại lớp vào tháng Năm. Tại Mỹ, hơn một nửa số khu học chánh đã bắt đầu lại chương trình giảng dạy toàn thời gian vào đầu tháng Sáu, và gần như tất cả đều cung cấp ít nhất một số hình thức học tập trực tiếp.
Nhưng trên toàn thế giới, 770 triệu trẻ em vẫn chưa được đến trường toàn thời gian cho đến cuối tháng Sáu năm 2021. Và hơn 150 triệu trẻ em ở 19 quốc gia không được tiếp cận với học tập trực tiếp tại trường. Các em vẫn đang học trực tuyến hoặc thậm chí là không hề đi học. Ngay cả khi trường học mở cửa trở lại, rất nhiều em sẽ không quay lại lớp. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc UNESCO đã dự đoán năm ngoái rằng khoảng 24 triệu học sinh sẽ bỏ học do tác động của đại dịch. Robert Jenkins, giám đốc giáo dục của tổ chức từ thiện UNICEF dành cho trẻ em của Liên Hợp Quốc ở thành phố New York cho biết, vì trường học vốn cung cấp rất nhiều dịch vụ thiết yếu khác ngoài việc học, nên đó phải là nơi đóng cửa cuối cùng và mở cửa đầu tiên. Ông nói: “Có nhiều quốc gia mà ở đó cha mẹ có thể ra ngoài và ăn tối với món bít tết ngon, nhưng đứa trẻ bảy tuổi của họ không đi học. Đó là một vấn đề.”
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy trường học có thể được mở cửa một cách an toàn. Nhưng điều đó không làm dập tắt cuộc tranh luận rằng có nên mở cửa trường học không, và nếu mở, thì nên thực hiện các bước nào để hạn chế sự lan rộng của vi rút. Vào tháng Chín, khi trường học ở nhiều nơi trên thế giới sẽ mở cửa trở lại, những nỗi lo mới và cuộc tranh luận sẽ bắt đầu. Rất nhiều thanh thiếu niên và trẻ em sẽ cần được tiêm vắc xin tại Mỹ và các nước giàu có khác. Nhưng với các nước có thu nhập thấp và trung bình, tiếp cận vắc xin sẽ bị giới hạn. Những trẻ bé hơn ở phần lớn các nước có thể sẽ phải chờ đợi. Và vi rút tiếp tục đột biến và tiến hóa. Christina Pagel, một nhà toán học ở Đại học Cao đẳng London nói: “Điều chúng ta không biết là các biến thể mới.”
Các cuộc tranh luận
Vào tháng Ba năm 2020, khi nhiều trường học đóng cửa, chúng ta mới chỉ biết chút ít về SAR-CoV-2. John Bailey, một thành viên đang ghé thăm Viện nghiên cứu Doanh nghiệp Mỹ cánh hữu ở Washington DC, người gần đây đã xem xét các tài liệu về trường học và COVID-19 nói: “Chúng tôi sớm đóng cửa trường học, không chỉ để làm phẳng đường cong truyền nhiễm (flatten the curve), mà còn vì với phần lớn những bệnh về hô hấp, trẻ em là đối tượng rủi ro cao nhất.”
Các nhà khoa học sớm phát hiện ra rằng trẻ em là đối tượng ít có nguy cơ chuyển biến nặng nhất, nhưng vẫn chưa rõ rằng liệu trẻ em có dễ nhiễm bệnh như người lớn không, và liệu những đứa trẻ bị nhiễm bệnh có thể truyền vi rút cho người khác hay không. Một số nhà nghiên cứu lo ngại rằng việc để trẻ em quay lại trường học có thể sẽ tiếp tay cho dịch bệnh. Nhưng cuộc tranh luận sớm chuyển từ khía cạnh khoa học sang địa hạt chính trị.
“CÁC TRƯỜNG HỌC PHẢI MỞ CỬA VÀO MÙA THU!!!”, Tổng thống Donald Trump lúc bấy giờ đã viết tweet vào tháng Bảy năm 2020. Bailey nói “Nó đã trở thành một thời điểm của đảng phái. Rất nhiều người trong chúng tôi đã cố gắng không tin bất cứ điều gì tổng thống đang nói.” Tracy Høeg, một nhà dịch tễ học ở Đại học California, Davis đồng tình “Bất kỳ ai trong ngành khoa học nói rằng trường học được mở cửa đều đột nhiên trở thành phạm pháp.”
Ellen Peters, một nhà nghiên cứu quyết định và giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Khoa học tại Đại học Oregon ở Eugene, cho biết một số chia rẽ chính trị là không thể tránh khỏi. Những người bảo thủ có quan điểm về thế giới khác với những người theo quan điểm tự do. Nhưng “Trump đã làm trầm trọng thêm điều đó”, cô nói.
Các quốc gia khác cũng không tránh khỏi những tranh cãi. Khi các trường tiểu học ở Đan Mạch mở cửa trở lại vào tháng 4 năm 2020, một số phụ huynh lo lắng rằng con họ sẽ trở thành chuột bạch. Ở Pháp, nơi hầu hết các trường học vẫn mở cửa, thanh thiếu niên đã lên tiếng phản đối vào tháng 11 năm ngoái, nói rằng các biện pháp bảo vệ COVID-19 bên trong các lớp học là không đầy đủ. Ở một số học khu, giáo viên không xuất hiện khi vi rút corona quét qua các cộng đồng. Và các bậc cha mẹ không muốn báo cáo các ca bệnh vì họ sẽ phải cách ly ở nhà với con cái và có thể bị mất việc làm. Tại Berlin, các nhà chức trách đã loại bỏ kế hoạch mở cửa lại một phần trường học vào tháng Một, trong bối cảnh lệnh phong tỏa vẫn đang được áp dụng toàn quốc, sau phản ứng dữ dội từ phụ huynh, giáo viên và các quan chức chính phủ.
Một điểm mấu chốt là vấn đề ưu tiên vắc xin. Khi các trường học bắt đầu mở cửa vào tháng 3 và tháng 4, phần lớn giáo viên vẫn chưa được tiêm phòng. Điều đó khiến việc cân nhắc rủi ro và lợi ích trở nên đặc biệt khó khăn. Jennifer Nuzzo, nhà dịch tễ học tại Trung tâm An ninh Y tế Johns Hopkins ở Baltimore, Maryland, nhận định rằng việc mở cửa trường học sẽ mang lại rủi ro lớn nhất cho người lớn trong hệ thống trường học, nhưng ngược lại cũng mang lại lợi ích lớn cho trẻ em.
Sự công bằng cũng trở thành một tiêu điểm trong cuộc tranh luận. Các nhà nghiên cứu cho rằng việc học tập từ xa sẽ làm gia tăng sự chênh lệch giữa học sinh da trắng và học sinh da màu ở nhiều quốc gia. Robin Lake, giám đốc Trung tâm Đổi mới Giáo dục Công cộng, một tổ chức nghiên cứu và phân tích chính sách phi đảng phái ở Seattle, Washington, lo ngại rằng khoảng cách thành tích sẽ ngày càng bị khoét sâu, không chỉ với nhóm trẻ da màu mà cả những nhóm trẻ yếu thế khác như trẻ khuyết tật hay có nhu cầu phức tạp.
Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ, các cuộc khảo sát cho thấy rằng các gia đình da màu không nhất thiết muốn con đi học trực tiếp. Khi trường học mở cửa, những gia đình này là một trong số những gia đình ít sẵn sàng gửi con họ trở lại. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên, Durryle Brooks, một nhà khoa học xã hội tại Đại học Johns Hopkins và là chủ tịch chính sách của Ủy ban Trường học Thành phố Baltimore cho biết. Ông nói thêm: “Các hệ thống đã liên tục làm thất vọng những người da đen và da nâu ở đất nước này. Tại sao niềm tin kia lại đột nhiên xuất hiện vào lúc này? Và việc gửi học sinh trở lại trường học trực tiếp sẽ không thể khắc phục khoảng cách thành tích. Brooks nói: “Ở thành phố Baltimore, học sinh da đen đã luôn tụt lại về mặt thành tích” trong một thời gian dài, thậm chí trước cả đại dịch.
Giảng đường
Giờ đây, hơn một năm sau khi đại dịch bắt đầu, các nhà nghiên cứu đã biết nhiều hơn về COVID-19. Và họ biết thêm về cách bệnh lây lan (và cách không lây lan). Mặc dù một số trẻ em và giáo viên đã mắc SARS-CoV-2, nhưng trường học dường như không phải là môi trường có tỉ lệ lây lan lớn. Høeg nói: “Tỷ lệ mắc bệnh trong các trường học không cao hơn trong cộng đồng.”
Việc theo dõi các ca bệnh trong trường học tương đối đơn giản. Nhưng điều mà các quan chức y tế công cộng thực sự muốn biết là liệu học sinh và nhân viên trường học đang làm lây lan vi rút trong trường hay chỉ là mang bệnh từ những nơi khác đến. Điều đó phức tạp hơn để có thể biết được.
Một trong những nghiên cứu lớn nhất về COVID-19 tại các trường học ở Hoa Kỳ đã xem xét hơn 90.000 học sinh và giáo viên ở Bắc Carolina trong 9 tuần vào mùa thu năm ngoái. Theo Daniel Benjamin, bác sĩ nhi khoa tại Viện nghiên cứu lâm sàng Duke ở Durham, Bắc Carolina, cho biết “chúng tôi dự kiến sẽ thấy khoảng 900 trường hợp lây truyền trong trường”. Nhưng khi các nhà nghiên cứu tiến hành truy vết để xác định các ca bệnh lây truyền liên quan đến trường học, họ chỉ xác định được 32 ca bệnh (xem hình Sự lây lan nhẹ).
Jeanne Noble, bác sĩ cấp cứu chỉ đạo phản ứng COVID-19 tại trung tâm y tế của Đại học California, San Francisco, cho rằng kết quả đó đáng ra phải là điểm tựa chính đối với những nhà làm chính sách tuyên bố rằng sẽ dựa trên dữ liệu để đưa ra quyết định.. Tuy nhiên, nhiều trường học vẫn đóng cửa. Kể từ đó, “chỉ là một loạt các nghiên cứu tương tự khác”, Noble nói.
Một nghiên cứu khác đã xem xét 17 trường học ở vùng nông thôn Wisconsin. Nhóm nghiên cứu đã quan sát 191 trường hợp COVID-19 ở nhân viên và học sinh trong suốt 13 tuần vào mùa thu năm 2020, thời điểm lây truyền cao của khu vực đó. Chỉ có 7 ca bệnh trong số đó dường như bắt nguồn từ các trường học. Một nghiên cứu thứ hai, chưa được công bố, đã xem xét Nebraska. “Họ đã mở cửa cả năm với hơn 20.000 học sinh và nhân viên, và chỉ có 2 ca nhiễm trong toàn bộ thời gian nghiên cứu”, Høeg nói.
Các nhà phê bình cho rằng nếu không có thử nghiệm giám sát, những đứa trẻ không có triệu chứng sẽ không được xác định hoặc tính đến, vì vậy con số thực có thể cao hơn nhiều. Nhưng ngay cả khi số trường hợp thực tế gấp đôi hoặc thậm chí gấp ba con số trong các nghiên cứu này, tỷ lệ lây truyền sẽ thấp hơn nhiều so với trong cộng đồng, Benjamin nói. “Các em ở trong trường sẽ an toàn hơn là ở ngoài trường.”
Các nghiên cứu bao gồm thử nghiệm có xu hướng cho thấy tốc độ truyền nhiễm thấp tương tự. Các nhà nghiên cứu ở Na Uy đã xác định 13 trường hợp được xác nhận ở trẻ em từ 5-13 tuổi tại các trường học và kiểm tra gần 300 ca nhiễm tiếp xúc gần để đánh giá tỷ lệ nhiễm thứ cấp – tỷ lệ phần trăm những người tiếp xúc bị lây nhiễm từ một trường hợp duy nhất. Chỉ 0,9% trẻ em tiếp xúc và 1,7% tiếp xúc với người lớn nhiễm vi rút.
Ở Salt Lake City, các nhà nghiên cứu đã tiến thêm một bước nữa. Họ cung cấp các xét nghiệm COVID-19 cho hơn 1.000 học sinh và nhân viên đã tiếp xúc với bất kỳ học sinh nào trong số 51 học sinh có kết quả xét nghiệm dương tính. Trong số khoảng 700 người đã thực hiện các xét nghiệm, chỉ có 12 người có kết quả dương tính. Sau đó, các nhà khoa học sử dụng phương pháp truy vết và giải trình tự gen để xác định các ca bệnh lây truyền xảy ra ở trường. Chỉ 5 trong số 12 ca bệnh là liên quan đến trường học – tỷ lệ nhiễm bệnh chỉ ở mức 0,7%. Điều này cho thấy những học sinh nhiễm vi rút không có xu hướng lây lan ở trường. Một nghiên cứu tương tự ở thành phố New York cho thấy tỷ lệ nhiễm bệnh thậm chí còn thấp hơn, chỉ 0,5%.
Tuy nhiên, khi các biện pháp phòng bệnh không được áp dụng, tỷ lệ nhiễm bệnh có thể cao hơn nhiều. Tại Israel, các trường học đã mở cửa trở lại vào giữa tháng 5 năm 2020. Trong vòng hai tuần, một ổ dịch lớn đã bùng phát ở một trường trung học. Các quản trị viên đã xét nghiệm thấy hơn 1.200 người tiếp xúc gần với hai người ban đầu cho kết quả dương tính. Họ đã xác định được 153 học sinh bị nhiễm bệnh và 25 nhân viên bị nhiễm bệnh – tỷ lệ nhiễm lần lượt là 13,2% và 16,6%. Đến giữa tháng Sáu, Bộ Y tế đã xác định thêm gần 90 trường hợp trong số những người tiếp xúc gần với những người ban đầu bị nhiễm bệnh, bao gồm các thành viên trong gia đình, bạn bè và đồng đội. Đợt bùng phát có lẽ đã trở nên trầm trọng hơn bởi một đợt nắng nóng. Để các điều kiện bớt ngặt nghèo hơn, chính phủ đã ban hành lại quy định đeo khẩu trang, các trường học đã đóng cửa sổ và bắt đầu sử dụng điều hòa để điều hòa không khí trong lớp học. Có quá nhiều học sinh để đảm bảo được giãn cách xã hội.
Tuy nhiên, phần lớn các tài liệu về sự lây truyền trong trường học cho thấy rằng trẻ em không thúc đẩy sự lây lan của vi rút. Các cuộc điều tra ở Đức, Pháp, Ireland, Úc, Singapore và Hoa Kỳ cho thấy không có, hoặc rất thấp, tỷ lệ nhiễm bệnh thứ cấp trong môi trường trường học.
Høeg cho rằng truyền thông Hoa Kỳ đã làm thổi phồng nhận định không có căn cứ khoa học rằng COVID là nguy hiểm và trẻ em là những đối tượng siêu lây lan và trường học là những nơi siêu lây lan.
Điều đó không có nghĩa là không có rủi ro. Một số trẻ em đã chết vì căn bệnh này. Một nghiên cứu xem xét các trường hợp tử vong liên quan đến COVID-19 ở trẻ em ở 7 quốc gia cho thấy đã có 231 trẻ tử vong vì căn bệnh này trong khoảng thời gian từ tháng Ba năm 2020 đến tháng Hai năm 2021. Tại Hoa Kỳ, con số tính đến tháng Sáu là 471. Một số người đã chết vì một hội chứng viêm hiếm gặp nhưng đáng sợ. Và bằng chứng mới xuất hiện cho thấy ít nhất một số trẻ em bị nhiễm bệnh có các triệu chứng dai dẳng. Deepti Gurdasani, một nhà dịch tễ học tại Đại học Queen Mary ở London, nói rằng một số đồng nghiệp của cô dường như quá lãnh đạm về tác động của COVID-19 đối với trẻ em. Cô nói: “Điều đó thực sự khiến tôi khó hiểu được tại sao chúng ta lại thoải mái cho trẻ em tiếp xúc với một loại vi rút mà chúng ta chưa nghiên cứu nhiều đến vậy.”
Nhưng việc để trẻ em nghỉ học cũng đi kèm với những rủi ro riêng của nó. Nhiều bậc cha mẹ đã chứng kiến sự cô lập về mặt xã hội và chứng kiến con cái của họ phải vật lộn để tập trung với những bài học được truyền tải qua màn hình. Các nghiên cứu mới cho thấy trẻ em trong hoàn cảnh học tập từ xa đang bị tụt hậu về mặt học tập, đặc biệt là những trẻ em vốn đã gặp khó khăn. Trường học cung cấp nhiều thứ hơn chỉ là giáo dục. Họ đóng vai trò như một mạng lưới an toàn cho nhiều trẻ em, cung cấp các bữa ăn miễn phí và một nơi an toàn để ở cả ngày. Các nhà giáo dục và cố vấn học đường thường là những người đầu tiên phát hiện ra các dấu hiệu của lạm dụng tình dục hoặc bạo hành gia đình và can thiệp. Hơn nữa, việc đóng cửa các trường học đã trở thành một thảm họa đối với nhiều phụ huynh đang đi làm. Những người có con nhỏ bị ném vào mớ bòng bong giữa những lớp học trực tuyến, các công việc chăm sóc con cái bình thường và công việc của riêng họ.
Bác sĩ cấp cứu Leana Wen, hiện tại Trường Y tế Công cộng Milken thuộc Đại học George Washington ở Washington DC, lập luận rằng nhiều người đã tập trung vào câu hỏi sai. “Đừng hỏi liệu trường học có an toàn hay không. Thay vào đó, hãy thừa nhận rằng hướng dẫn trực tiếp là điều cần thiết; sau đó áp dụng các nguyên tắc mà chúng ta đã học được từ các dịch vụ thiết yếu khác để giữ cho các trường học mở cửa,” cô viết trong một bài báo trên Washington Post.
Justin Lessler, một nhà dịch tễ học tại Đại học Johns Hopkins đồng tình. Ông nói: “Chúng ta đã quyết định trường học là quan trọng. Và chúng ta nên làm những việc quan trọng, ngay cả khi việc đó là khó khăn”.
Các tính toán nâng cao hơn
Ở những quốc gia nơi các chương trình tiêm chủng tiến triển nhanh chóng, có vẻ như các trường học sẽ mở cửa vào năm học tới với ít hạn chế và biện pháp phòng ngừa hơn so với những tháng trước.
Tuy nhiên, nguồn gốc lớn nhất của sự không chắc chắn là sự xuất hiện của các biến thể mới. Biến thể cần quan tâm B.1.617.2, hoặc Delta, được xác định lần đầu tiên ở Ấn Độ, dường như có khả năng lây truyền cao hơn khoảng 40–60% so với biến thể Alpha, B.1.1.7, được phát hiện lần đầu tiên ở Anh, và đã thay thế Alpha để trở thành biến thể thống trị.
Tại Anh, các ca bệnh bắt đầu tăng vọt. Trong một nghiên cứu được đăng trên một nền tảng preprint, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra cá nhân ngẫu nhiên trên toàn quốc để tìm COVID-19. Từ ngày 20 tháng Năm đến ngày 7 tháng Sáu, tỷ lệ các trường hợp dương tính tăng theo cấp số nhân, với thời gian tăng gấp đôi 11 ngày. Đến ngày 7 tháng Sáu, khoảng 90% các trường hợp được cho là do biến thể Delta. Tỷ lệ hiện mắc cao nhất ở trẻ em từ 5–12 tuổi và thanh niên. Điều đó khiến Gurdasani lo lắng.
Các biện pháp như đeo khẩu trang và cải thiện hệ thống thông gió sẽ giúp hạn chế sự lây lan của vi rút trong trường học, ngay cả đối với các biến thể dễ lây truyền hơn. Nhưng khoa học về các biện pháp phòng ngừa tốt nhất vẫn chưa được giải quyết. Ban đầu, CDC khuyên các trường nên giữ học sinh cách nhau 6 feet (1,83 mét); vào tháng 3, khoảng cách đã giảm một nửa, dựa trên các nghiên cứu mới. Ở Anh, hướng dẫn phòng ngừa là hãy cố gắng giữ khoảng cách bất cứ khi nào có thể. Høeg cho biết tại các trường học Wisconsin, “mùa xuân này chúng tôi đã tiến hành giãn học sinh chưa đến 3 feet trong lớp học”. Tuy nhiên, họ chỉ nhận diện được hai trường hợp lây lan trong trường học ngay cả khi kiểm tra giám sát những người không có triệu chứng. “Khoảng cách 2, 3, so với 6 feet dường như không phải là điều tạo nên sự khác biệt,” cô nói.
Và mặc dù đã có nhiều bằng chứng ủng hộ việc sử dụng khẩu trang trong nhà, đó vẫn là một chủ đề gây tranh cãi. Khi các trường học mở cửa trở lại ở Anh vào tháng Ba, chỉ học sinh cấp 2 mới được yêu cầu đeo khẩu trang. Nhưng Bộ Giáo dục Vương quốc Anh đã ngừng khuyến nghị việc đeo khẩu trang cho học sinh và nhân viên vào ngày 17 tháng Năm “dựa trên tình hình hiện tại của đại dịch và những tiến triển tích cực đang đạt được”. Một số trường học có số ca bệnh tăng đột biến đã giới thiệu lại các chính sách về khẩu trang. Tại các trường học Hoa Kỳ, việc sử dụng khẩu trang khác nhau giữa các tiểu bang và giữa các quận. CDC đã thay đổi hướng dẫn về khẩu trang vào tháng Năm và hiện nói rằng những người đã được tiêm chủng không cần đeo. Sau thông báo đó, các quy định về khẩu trang đã bị bãi bỏ trên toàn quốc. Một số tiểu bang thậm chí còn thông qua luật cấm các khu học chánh địa phương yêu cầu trẻ em phải đeo khẩu trang trong nhà.
Gandhi, Høeg và hai chuyên gia khác đã viết một bài đăng trên tờ Washington Post lập luận rằng trẻ em nên “trở lại cuộc sống bình thường trong năm học sắp tới, không cần đeo khẩu trang bất kể tình trạng tiêm chủng như thế nào”.
Nhưng những người khác có cái nhìn thận trọng hơn. Katelyn Jetelina, một nhà dịch tễ học tại Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Texas tại Houston, nhận thấy điều này không thuyết phục. “Đó không phải toàn bộ câu chuyện,” cô nói. Jetelina chỉ ra rằng mức độ lây truyền vẫn còn thực sự cao ở những người chưa được tiêm chủng ở Hoa Kỳ và hầu hết trẻ em chưa được tiêm chủng.
Tuy nhiên, số ca mắc ở Hoa Kỳ đang ở mức thấp nhất kể từ cuối tháng 3 năm 2020. Số ca tử vong đã giảm mạnh và hơn 80% giáo viên đã được tiêm phòng. Vào tháng Năm, thành phố New York, khu học chánh lớn nhất của đất nước, đã thông báo rằng các trường học sẽ mở cửa toàn thời gian vào mùa thu. “Chúng tôi có tất cả lý do để lạc quan,” Gandhi nói.
Høeg đồng ý: “Tại một số thời điểm, chúng tôi phải nói rằng COVID đã đạt đến mức độ rủi ro mà chúng ta sẽ được chăm sóc tốt hơn bằng cách quay trở lại cuộc sống bình thường hơn.”
Việc thời điểm đó cụ thể là khi nào vẫn đang là chủ đề mở để tranh luận. Vương quốc Anh có thể là một câu chuyện cảnh báo về rủi ro của việc dỡ bỏ các hạn chế và các biện pháp phòng ngừa quá sớm khi đối mặt với các biến thể mới như Delta.
Lake hy vọng đại dịch sẽ làm nên một thiết lập lại rất cần thiết cho các trường công lập. Lake nói: “Giáo dục công thực sự được thiết kế để làm mọi thứ theo cách tương tự nhau và để giảm thiểu rủi ro, chứ không phải để đổi mới và giải quyết các vấn đề chưa được giải quyết. Đại dịch đã nêu bật những nhược điểm rất lớn của mô hình đó. Hệ thống vừa sụp đổ vì mọi người đang nhìn những người khác chờ chỉ đạo.”
Ông Jenkins từ UNICEF cũng muốn tránh việc khôi phục nguyên trạng. Ngay cả trước khi đại dịch xảy ra, có rất nhiều trường học không thực sự hỗ trợ trẻ em đúng cách. Jenkins muốn các giáo viên và quản trị viên suy nghĩ sáng tạo về cách đưa vào lớp học công nghệ phục vụ học trực tuyến, cách dạy các kỹ năng quan trọng như giải quyết vấn đề, và làm thế nào để giải quyết không chỉ học tập mà còn cả sức khỏe tâm thần, dinh dưỡng, phát triển tình cảm-xã hội và hơn thế nữa. Jenkins nói: “Chúng ta có một cơ hội ngàn năm có một để chào đón những đứa trẻ quay trở lại với những cách học tập tương tác mới đầy sức sống. Sẽ là một sự xấu hổ lớn nếu chúng ta không nắm bắt cơ hội đó”.